Đôi Nét Về Nền VĂN HÓA SA HUỲNH Miền Trung Việt Nam

Sa Huỳnh

Sa Huỳnh là nền văn hóa tồn tại trước công nguyên 500 năm và kéo dài đến thế kỷ thứ 2 sau công nguyên. Nền văn hóa Sa Huỳnh cùng với Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Óc Eo tạo thành tam giác văn hóa của Việt Nam Thời kỳ đồ sắt. Hãy cùng Khách sạn YASAKA Sài Gòn Nha Trang tìm hiểu nhé!

Lịch Sử Khám Phá Của Nền Văn Hóa Sa Huỳnh

Sa Huỳnh lần đầu tiên đư­ợc nhà khảo cổ ng­ười Pháp M. Vinet phát hiện vào năm 1909 khi ông tìm thấy một số lượng lớn quan tài khoảng 200 chiếc bằng chum bên đầm An Khê, một đầm nước ngọt ở Sa Huỳnh, Đức Phổ, Quảng Ngãi. Di tích khảo cổ đó được đặt tên là Kho Chum Sa Huỳnh (Dépôt à Jarres Sa Huỳnh) và mộ chum trở thành di vật đặc trưng để nhận biết Văn hóa Sa Huỳnh.  

Các cuộc khai quật vào nhiều năm khác nhau tại di tích gò Ma Vương hay còn gọi là Long Thạnh Đức Phổ nơi được xem là có niên đại sớm nhất của nền văn hóa Sa Huỳnh, đã đem lại những kết quả đánh giá xác đáng và quan trọng về nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển văn hóa Sa Huỳnh.

Sa Huỳnh

Từ đó đến nay, nền văn hóa này được các nhà khảo cổ trên thế giới tiếp tục nghiên cứu càng sáng tỏ nhiều điều về đời sống của các tộc ngư­ời thời tiền sơ sử ở miền Trung Việt Nam. Xuất hiện cách nay khoảng 3.000 năm và kết thúc vào thế kỷ thứ 1, văn hóa Sa Huỳnh có lẽ đã tồn tại hơn 5.000 năm kéo dài từ thời hậu kỳ đồ đá mới đến đầu thời đại đồ sắt trên địa bàn các tỉnh từ Quảng Bình đến Nam Trung bộ và Tây Nguyên.

Với sức sáng tạo vô cùng mạnh mẽ và phong phú, văn hóa Sa Huỳnh ngày càng thấy có sự ảnh hưởng và giao lưu với nhiều vùng khác của các nước Đông Nam Á và Trung Hoa cổ xưa và Ấn Độ cổ xưa.

Khi gần đây, Viện Khảo cổ học Quốc gia Đức hợp tác với các nhà khảo cổ học khoa lịch sử của Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia, tiến hành khảo cứu tại một số vùng thuộc tỉnh Quảng Ngãi trong các năm 2004-2005. Bước đầu đã xác định được diện mạo một nền văn hóa đặc sắc ở miền Trung, Việt Nam.

Đọc thêm:  Kinh Nghiệm DU LỊCH ĐÀ NẴNG TỰ TÚC Siêu Tiết Kiệm

Thành Tựu Của Nền Văn Hóa Sa Huỳnh

Trồng Trọt

Dân cư cổ thuộc văn hóa Sa Huỳnh định cư chủ yếu dọc hai bên các con sông dọc bờ biển miền Trung, trải dài từ Quảng Bình cho đến Phú Yên. Họ thuộc nguồn gốc văn minh lúa nước Đông Nam Á khi những dụng cụ bằng sắt như cuốc, dao, kiếm, lao, đục, xà beng… đã được tìm thấy ở đây.

Sa Huỳnh

Phần đất miền Trung bao gồm Quảng Ngãi là nơi hội tụ và giao tiếp văn hoá Tây Đông giữa miền núi, miền biển và đồng bằng xứ Quảng, kết tinh dựng lên nền văn minh lúa nước và dâu tằm nổi tiếng. Lúa hai mùa, tằm tám lứa, tơ mỗi năm được sử sách chép đến sớm nhất là đồng bằng xứ Quảng, trung tâm của nền văn hoá Sa Huỳnh. 

Sách sử cũng có nói đến người Chàm trồng hai vụ lúa để thích ứng với thời tiết và họ cũng đã tìm ra giống lúa chịu hạn gieo trồng vào đầu mùa khô và lúa chín vào mùa mưa được gọi  là mùa Chiêm. Và để có nước để trồng trọt, họ đã đào cả một hệ thống giếng lấy nước nên giới nghiên cứu ghi nhận một nền văn hoá gọi là “văn hoá Giếng Chàm cổ”.

Đánh Cá Và Đi Biển

Trước năm 1975, các nhà khảo cổ trên thế giới mới chỉ biết đến văn hóa Sa Huỳnh qua hoạt động đi biển của cư dân và lên đất liền mai táng ng­ười chết trong những mộ chum đư­ợc tìm thấy ở Palavan (Philippines), Bondontaphet (Thái Lan), Sa Huỳnh (Việt Nam).

 Sau năm 1975 các nhà khảo cổ Việt Nam đã bỏ nhiều thời gian và công sức nghiên cứu đã có cái nhìn chính xác và toàn diện hơn về nền văn hóa Sa Huỳnh khi phát hiện nhiều di chỉ cư­ trú của người Sa Huỳnh với nhiều hiện vật tại Hội An.

Sa Huỳnh

Các phát hiện cho thấy ngư­ời Sa Huỳnh cổ là những cư­ dân nông nghiệp, và đi biển chỉ là một trong những sinh hoạt của họ. Các đồng tiền Ngũ Thủ và Vư­ơng Mãng (đầu thế kỷ thứ 1 Trước Công Nguyên), các gư­ơng đồng của nhà Tây Hán, đỉnh đồng nhà Đông Hán có trong các mộ chum chứng tỏ họ đã có một nền sản xuất hàng hóa cùng với sự giao thư­ơng khá phát triển.

Người Chàm đã biết khai thác trầm hương, quế, ngà voi, sừng tê giác, dầu rái, ngọc, vàng trên núi, hồ tiêu trên đồi; biết làm ruộng hai mùa ở đồng bằng hẹp Minh Kinh và Ô Chân; biết trồng cau, dừa, trồng dâu nuôi tằm từ trước sau kỷ nguyên Dương lịch. Ngoài ra, họ còn biết làm thuyền to, thuyền nhỏ; biết đánh cá biển và buôn bán bằng đường biển trên vùng Đông Nam Á, từ ven biển Trung quốc xuống Ấn Độ Dương thông qua hai cảng Cửa Việt, Cửa Tùng.

Đọc thêm:  THÁP BÀ PONAGAR Nha Trang Nét Văn Hóa Chăm Pa Độc Đáo

Đồ Trang Sức Và Kỹ Thuật Làm Thủy Tinh

Các nhà khảo cổ đã tìm thấy các bộ hạt chuỗi giá trị ở Lai Nghi ở những khu mộ táng của Văn hóa Sa Huỳnh. Trong khi rây bằng sàng phát hiện được số lượng lớn hơn 8.600 hạt cườm thủy tinh có đường kính 1-3mm với 3 màu màu xanh, vàng hoặc nâu và bộ hạt chuỗi gồm khoảng 1.500 hạt bằng đá mã não, achat, crystal, amethyst, nephrite thêm 4 khuyên tai bằng vàng.

Sa Huỳnh

Đặc biệt, 1.136 hạt chuỗi bằng mã não tìm thấy ở Lai Nghi có 3 chiếc rất đặc biệt: chiếc thứ nhất hình con chim nước, chiếc thứ hai hình con hổ hoặc sư tử và chiếc thứ ba là hạt chuỗi khắc. 

Thủy tinh nhân tạo cũng là một thành tựu rực rỡ của nền văn hóa Sa Huỳnh. Các cư dân đã làm bát lọ bằng cách dùng cát trắng để nấu thủy tinh và đặc biệt những chuỗi hạt trang sức bằng thủy tinh từ đầu Công nguyên. Chúng không những có kiểu dáng đa dạng mà còn phong phú về màu sắc như­ xanh lơ, xanh đen, xanh lá mạ, xám, tím, đỏ và nâu.

Đồ Gốm

Ngư­ời Sa Huỳnh cổ rất khéo tay và có mỹ cảm tuyệt vời khi các đồ gốm gia dụng họ làm đều được tạo dáng thanh nhã, cân đối, hoa văn phong phú, sinh động thể hiện một tâm hồn giàu xúc cảm và tinh tế. Mẫu gốm thường gặp là vàng đỏ, nhiều khi có vệt đen bóng, có hoa văn chữ S có đệm tam giác, những đường chấm hay đường in dấu răng vỏ sò. 

Sa Huỳnh

Xã Hội Của Người Sa Huỳnh Cổ

Điều đó đã xác nhận cách đây gần 3000 năm, trên lưu vực sông Đồng Nai mà thượng nguồn là lãnh thổ Lâm Đồng đã có những bộ lạc sinh sống với một nền văn hóa đồng – sắt đã phát triển và sở hữu đặc trưng riêng. Có thể nói, các bộ lạc này là tiền thân của các dân tộc bản địa. Sách lịch sử Việt Nam cho biết, bấy giờ trên địa bàn của văn hóa Sa Huỳnh có hai bộ lạc sinh sống đó là bộ lạc Cau cư trú vùng Phú Yên, Khánh Hòa – Ninh Thuận – Bình Thuận trở vào và bộ lạc Dừa ở vùng Bình Định, Quảng Nam ngày nay.

Đọc thêm:  Điểm Đến Khu DU LỊCH SÔNG LÔ Đầy Lôi Cuốn Ở Nha Trang

Trong đó, bộ lạc Dừa bị nhà Hán đô hộ từ thế kỷ đầu trước công nguyên và đặt tên là huyện Tượng Lâm. Năm 190- 193, nhân dân Tượng Lâm nổi dậy đánh đuổi người Hán, lập nên nước Lâm Ấp (theo tên gọi của thư tịch cổ Trung Hoa).

Và bộ lạc Cau đã hình thành một tiểu vương quốc riêng có tên là Panduranga (tên Phạn) hay Pan-Rãn (tiếng Chăm cổ) vào khoảng đầu công nguyên, về sau gọi là Chăm Pa, có địa bàn từ Nha Trang – Phan Rang, Phan Thiết ngày nay.

Tập Tục Tín Ngưỡng Của Người Sa Huỳnh Cổ

Tập tục độc đáo của người Sa Huỳnh cổ chính là chôn người mất  trong các chum lớn với chiều cao lên đến 1,2m, được làm từ đất đen, đỏ và được nung khá tốt. Người chết được táng trong chum bằng tư thế ngồi bó gối để được sống tiếp ở cõi âm. Đồ tùy táng nhiều hay ít tùy thuộc vào sự giàu có hay nghèo khó của người chết.

Sa Huỳnh

Người Sa Huỳnh cổ theo tín ngưỡng thờ mẫu hệ và ngày nay vẫn còn tồn tại ở các dân tộc Chăm, các cư dân bản địa Tây Nguyên. Đồng bào Chàm hàng năm ăn Tết vào ngày đầu năm nhằm 19 tháng 4 (Dương lịch) và có 2 lễ hội lớn là lễ hội Katê tháng 7 lịch Chăm để tỏa lòng biết ơn trời đất, tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu, tưởng nhớ các vị vua tài đức và Lễ hội Chabur tháng 9 Âm lịch để dâng cúng các nữ Thần như nữ thần Thiên Y A Na – bà chúa xứ của đồng bào Chăm.

Lời Kết

Trên đây là những thông tin tổng quan về nền văn hóa Sa Huỳnh và để có cái nhìn cụ thể hơn về văn hóa này thì bạn hãy lên kế hoạch ngay cho mình một chuyến du lịch Quảng Ngãi để được được tận mắt chứng kiến hơn 300 hiện vật của văn hóa Sa Huỳnh được lưu trữ tại Bảo tàng Tổng hợp tỉnh nhé!